Acid ascorbic (vitamin C)
Acid ascorbic, còn được gọi là vitamin C, đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển hóa của cơ thể. Nó được sử dụng để ngăn ngừa hoặc điều trị tình trạng thiếu vitamin C ở những người không nhận đủ vitamin từ chế độ ăn uống hàng ngày.
Thông tin chung
Tên chung quốc tế: Ascorbic acid.
Mã ATC: A11GA01, G01AD03, S01XA15.
Loại thuốc: Vitamin tan trong nước.
Dạng thuốc và hàm lượng
- Viên nang giải phóng kéo dài: 250 mg; 500 mg.
- Viên hình thoi 60 mg.
- Dung dịch uống: 25 mg/giọt; 100 mg/ml; 500 mg/5 ml.
- Viên nén: 50 mg; 100 mg; 250 mg; 500 mg; 1 g.
- Viên nén nhai: 100 mg; 250 mg; 500 mg; 1 g.
- Viên nén tác dụng kéo dài: 500 mg; 1 g; 1,5 g.
- Viên sủi bọt: 1 g.
- Thuốc tiêm: 100 mg/ml; 222 mg/ml; 250 mg/ml; 500 mg/ml.
Thông tin qui chế
Vitamin C có trong Danh mục thuốc thiết yếu tân dược ban hành lần thứ VI, năm 2013 và Danh mục thuốc tân dược thuộc phạm vi thanh toán của quỹ bảo hiểm y tế, năm 2015.
Tên thương mại của Acid ascorbic
Ascorneo Inj.; C 500 Glomed; Cixtor; Codu-vitamin C 250; EuroCee; Star lemon; UPSA-C; Vitamin C Kabi; Vitamin C Larjan;
VitCfort.
Công dụng của Acid ascorbic
Dược lực học
Acid ascorbic và các muối calci ascorbat, natri ascorbat là các dạng chủ yếu của vitamin C. Cơ thể người không tạo ra được vitamin C cho bản thân, mà phải lấy từ nguồn thức ăn. Nhu cầu hàng ngày qua chế độ ăn cần khoảng 30 – 100 mg vitamin C đối với người lớn. Tuy nhiên, nhu cầu này thay đổi tùy theo từng người.
Các loại quả (cam, chanh, bưởi, nho đen, ổi, hồng,…) và rau (cà chua, khoai tây, rau xanh,…) chứa nhiều vitamin C. Sữa, thịt có ít vitamin C. Acid ascorbic rất dễ bị phá hủy khi nấu nướng, dự trữ. Vitamin C là một vitamin hòa tan trong nước, cần thiết để tổng hợp colagen và các thành phần của mô liên kết.
Thiếu hụt vitamin C xảy ra khi thức ăn cung cấp không đầy đủ lượng vitamin C cần thiết, dẫn đến bệnh scorbut. Thiếu hụt vitamin C rất hiếm xảy ra ở người lớn, nhưng có thể thấy ở trẻ nhỏ, người nghiện rượu hoặc người cao tuổi. Thiếu hụt biểu hiện ở triệu chứng dễ chảy máu (mạch máu nhỏ, chân răng, lợi), thành mao mạch dễ vỡ, thiếu máu, tổn thương sụn và xương, chậm liền vết thương. Dùng vitamin C làm mất hoàn toàn các triệu chứng trên.
Acid ascorbic có khả năng khử trong nhiều phản ứng sinh học oxy hóa – khử.
Có một số chức năng sinh học của acid ascorbic đã được xác định rõ ràng, gồm có sinh tổng hợp colagen, carnitin, catecholamin, tyrosin, corticosteroid và aldosteron.
Acid ascorbic cũng đã tham gia như một chất khử trong hệ thống enzym chuyển hóa thuốc cùng với cytochrom P450. Hoạt tính của hệ thống enzym chuyển hóa thuốc này sẽ bị giảm nếu thiếu acid ascorbic. Acid ascorbic còn điều hòa hấp thu, vận chuyển và dự trữ sắt.
Acid ascorbic là một chất bảo vệ chống oxy hóa hữu hiệu. Acid ascorbic loại bỏ ngay các loại oxy, nitơ hoạt động (các ROS = Reactive oxygen species và các RNS = Reactive nitrogen species) như các gốc hydroxyl, peroxyl, superoxid, peroxynitrit và nitroxid), các oxy tự do và các hypoclorit, là những gốc tự do gây độc hại cho cơ thể. Có rất nhiều chứng cứ sinh học chứng tỏ các gốc tự do ở nồng độ cao có thể gây tổn hại cho tế bào. Một số bệnh mãn tính có liên quan đến tổn thương do stress oxy hóa gồm có ung thư, bệnh tim mạch (xơ vữa động mạch vành…), đục thủy tinh thể, hen và bệnh phổi mạn tính tắc nghẽn. Tuy nhiên, hiện nay chưa xác định được rõ ràng mối liên quan về nguyên nhân.
Một vài tác dụng của vitamin C như chống thoái hóa hoàng điểm, phòng cúm, chóng liền vết thương, phòng ung thư còn đang nghiên cứu, chưa được chứng minh rõ ràng. Một số thầy thuốc khuyến cáo để giảm nguy cơ cao thoái hóa hoàng điểm nặng ở người cao tuổi đã dùng: Vitamin C 500 mg/ngày kết hợp với beta caroten 15 mg/ngày, vitamin E 400 mg/ngày và kẽm (dạng kẽm oxyd) 80 mg/ngày và đồng (dưới dạng oxyd đồng) 2 mg/ngày (đề phòng thiếu máu).
In vitro, acid ascorbic đã chứng tỏ ngăn chặn được oxy hóa LDL bằng cách loại bỏ ROS và RNS có trong môi trường nước. LDL oxy hóa được cho là gây xơ vữa động mạch.
Acid ascorbic trong bạch cầu đặc biệt quan trọng vì có ROS phát sinh ra trong khi bạch cầu thực bào hoặc bạch cầu hoạt hóa do bị viêm nhiễm. Nồng độ ascorbat cao trong bạch cầu bảo vệ bạch cầu chống lại tổn thương oxy hóa mà không ức chế hoạt tính diệt khuẩn của tiểu thể thực bào. Hoạt tính chống oxy hóa của acid ascorbic cũng bảo vệ chống lại tổn thương phân hủy protein ở các vị trí viêm như ở khớp (viêm dạng thấp), ở phổi (hội chứng suy hô hấp ở người lớn, hút thuốc, ozon).
Riêng đối với cảm lạnh, cho đến nay số liệu chưa đồng nhất để khuyến cáo.
Ngoài ra, có một vài chứng cứ acid ascorbic có thể điều hòa tổng hợp prostaglandin cho tác dụng giãn phế quản, giãn mạch và chống đông vón máu, khả năng chuyển acid folic thành acid folinic, chuyển hóa carbohydrat, tổng hợp lipid, protein, kháng nhiễm khuẩn và hô hấp tế bào.
Dược động học
Hấp thu: Vitamin C được hấp thu dễ dàng sau khi uống; tuy vậy, hấp thu là một quá trình tích cực và có thể bị hạn chế sau những liều rất lớn. Cung cấp thường xuyên lượng vitamin C qua chế độ ăn từ 30 – 180 mg hàng ngày, khoảng 70 – 90% được hấp thụ. Ở liều trên 1 g hàng ngày, sự hấp thụ giảm xuống còn khoảng 50% hoặc ít hơn. Trong nghiên cứu trên người bình thường, chỉ có 50% của một liều uống 1,5 g vitamin C được hấp thu. Hấp thu vitamin C ở dạ dày – ruột có thể giảm ở người ỉa chảy hoặc có bệnh về dạ dày – ruột.
Nồng độ vitamin C bình thường trong huyết tương ở khoảng 10 – 20 microgam/ml.
Nồng độ trong huyết tương dưới 1 – 1,5 microgam/ml khi bị bệnh scorbut. Tổng lượng vitamin C dự trữ trong cơ thể ước tính khoảng 1,5 g với khoảng 30 – 45 mg được luân chuyển hàng ngày. Dấu hiệu lâm sàng của bệnh scorbut thường trở nên rõ ràng sau 3 – 5 tháng thiếu hụt vitamin C.
Phân bố: Vitamin C phân bố rộng rãi trong các mô cơ thể. Nồng độ vitamin C cao được tìm thấy ở gan, bạch cầu, tiểu cầu, mô tuyến và thủy tinh thể của mắt.
Khoảng 25% vitamin C trong huyết tương kết hợp với protein.
Acid ascorbic đi qua được nhau thai và phân bố trong sữa mẹ.
Thải trừ: Acid ascorbic oxy hóa thuận nghịch thành acid dehydroascorbic.
Một ít vitamin C chuyển hóa thành những hợp chất không có hoạt tính gồm ascorbic acid-2-sulfat và acid oxalic được bài tiết trong nước tiểu. Có một ngưỡng đào thải acid ascorbic qua thận khoảng 14 microgam/ml, ngưỡng này có thể thay đổi tùy theo từng người. Khi cơ thể bão hòa acid ascorbic và nồng độ máu vượt quá ngưỡng, acid ascorbic không biến đổi được và đào thải vào nước tiểu. Đây là cơ sở để làm test bão hòa acid ascorbic cho tình trạng dinh dưỡng vitamin C. Khi bão hòa ở mô và nồng độ acid ascorbic ở máu thấp, acid ascorbic đào thải ít hoặc không đào thải vào nước tiểu. Acid ascorbic có thể loại bỏ được bằng thẩm phân máu.
Chỉ định
Chỉ định chính:
- Phòng và điều trị bệnh scorbut.
- Bổ sung vào khẩu phần ăn cho người ăn kiêng.
Chỉ định phụ:
- Phối hợp với desferrioxamin để làm tăng thêm đào thải sắt trong điều trị bệnh thalassemia.
- Methemoglobin huyết vô căn.
- Acid hóa nước tiểu.
Liều lượng và cách dùng Acid ascorbic
Cách dùng
Thường uống vitamin C. Khi không thể uống được hoặc khi nghi kém hấp thu, và chỉ trong những trường hợp rất đặc biệt, mới dùng đường tiêm. Có thể tiêm bắp, tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm dưới da. Khi dùng đường tiêm, tốt nhất là nên tiêm bắp mặc dù thuốc có gây đau tại nơi tiêm.
Liều lượng
Trẻ em:
- Bệnh thiếu vitamin C (scorbut): 100 – 300 mg/ngày, chia làm nhiều lần.
- Toan hóa nước tiểu: 500 mg cách 6 – 8 giờ/lần.
- Bổ sung vào chế độ ăn: Thay đổi từ 35 – 100 mg/ngày.
Người lớn:
- Bệnh thiếu vitamin C (scorbut): 100 – 250 mg/lần, 1 – 2 lần/ngày.
- Toan hóa nước tiểu: 4 – 12 g/ngày chia 3 – 4 lần.
- Bổ sung vào chế độ ăn: Thay đổi từ 50 – 200 mg/ngày.
- Methemoglobin – huyết vô căn: 300 – 600 mg/ngày, chia thành nhiều liều nhỏ.
- Tăng bài tiết sắt khi dùng deferoxamin: Uống acid ascorbic 100 – 200 mg/ngày, thường cho trong thời gian sử dụng liệu pháp deferoxamin, nhưng có nhà lâm sàng khuyên chỉ nên dùng acid ascorbic 1 tháng sau khi dùng deferoxamin, và dùng liều thấp nhất có hiệu quả, vì có 1 số chứng cứ cho thấy liều tương đối cao (như liều 500 mg hoặc > 500 mg/ngày) có thể có tác hại xấu đến chức năng tim trong khi dùng deferoxamin.
- Phòng và điều trị cảm lạnh: 1 – 3 g/ngày, chia thành nhiều liều nhỏ.
- Test bão hòa trạng thái dinh dưỡng vitamin C: Uống acid ascorbic 11 mg/kg.
- Lấy nước tiểu sau 24 giờ để định lượng ascorbat. Nếu bài tiết < 20% liều trong 24 giờ được cho là thiếu vitamin C; người bình thường bài tiết > 50% liều.
Quá liều và xử trí
Những triệu chứng quá liều gồm sỏi thận, buồn nôn, viêm dạ dày và ỉa chảy.
Gây lợi tiểu bằng truyền dịch có thể có tác dụng sau khi uống liều lớn.
Lưu ý khi dùng Acid ascorbic
Chống chỉ định
Chống chỉ định dùng vitamin C liều cao cho người bị thiếu hụt glucose-6-phosphat dehydrogenase (G6PD) (nguy cơ thiếu máu huyết tán).
Thận trọng
Dùng vitamin C liều cao kéo dài có thể dẫn đến hiện tượng nhờn thuốc, do đó khi giảm liều sẽ dẫn đến thiếu hụt vitamin C. Uống liều lớn vitamin C trong khi mang thai đã dẫn đến bệnh scorbut ở trẻ sơ sinh.
Tăng oxalat niệu và sự hình thành sỏi calci oxalat trong thận có thể xảy ra sau khi dùng liều cao vitamin C, nên tránh dùng vitamin C liều cao cho bệnh nhân bị sỏi calci oxalat ở thận, nếu cần thiết phải dùng nên theo dõi chặt chẽ oxalat niệu.
Vitamin C có thể gây acid hóa nước tiểu, đôi khi dẫn đến kết tủa urat hoặc cystin, hoặc sỏi oxalat, hoặc thuốc trong đường tiết niệu.
Vitamin C liều cao tiêm tĩnh mạch đã gây tử vong, do đó dùng thuốc tiêm tĩnh mạch là cách dùng không hợp lý và không an toàn.
Người bệnh thiếu hụt glucose-6-phosphat dehydrogenase dùng liều cao vitamin C tiêm tĩnh mạch hoặc uống có thể bị chứng tan máu. Huyết khối tĩnh mạch sâu cũng đã xảy ra sau khi dùng liều cao vitamin C.
Sử dụng quá mức và kéo dài các chế phẩm chứa vitamin C uống có thể gây nên sự ăn mòn men răng.
Dùng vitamin C có thể làm sai lệch đến các kết quả xét nghiệm glucose trong nước tiểu (dương tính giả khi dùng thuốc thử sulfat đồng hoặc âm tính giả khi dùng phương pháp glucose oxidase).
Uống vitamin C liều cao trong thời gian dài có thể gây bệnh cơ tim nguy hiểm ở người có lượng sắt dự trữ cao hoặc người bị nhiễm sắc tố sắt mô.
Có thể gây tan máu ở trẻ sơ sinh thiếu hụt glucose-6-phosphat dehydrogenase.
Cần cân nhắc cho bệnh nhân đang phải ăn hạn chế muối khi sử dụng vitamin C ở dạng muối natri ascorbat. Mỗi gam natri ascorbat chứa khoảng 5mEq natri.
Một số chế phẩm có chứa tá dược aspartam là chất được chuyển hóa thành phenylalanin, không được dùng ở bệnh nhân bị phenylketon niệu. Một số chế phẩm có chứa tá dược sulfit có thể gây dị ứng.
Dùng thận trọng với người có tiền sử sỏi thận, tăng oxalat niệu và rối loạn chuyển hóa oxalat (tăng nguy cơ sỏi thận), bị bệnh thalassemia (tăng nguy cơ hấp thu sắt).
Dùng liều cao, kéo dài cho phụ nữ có thai.
Thời kỳ mang thai
Acid ascorbic đi qua được nhau thai, nồng độ máu trong dây rốn gấp 2 – 4 lần nồng độ trong máu mẹ. Nếu dùng vitamin C theo nhu cầu bình thường hàng ngày thì chưa thấy xảy ra vấn đề gì trên người. Tuy nhiên, uống những lượng lớn vitamin C trong khi mang thai có thể làm tăng nhu cầu về vitamin C và dẫn đến bệnh scorbut ở trẻ sơ sinh.
Nồng độ vitamin C trong máu thai cao gấp 3 lần máu mẹ vì vitamin C tích lũy ở bào thai sau khi chuyển axit dehydroascorbic qua nhau thai (Malone 1975). Người ta không biết liệu việc bổ sung vitamin C ảnh hưởng đến sự cân bằng oxy hóa khử của thai nhi hay không. Gần đây, mối liên quan giữa thiếu vitamin C với bệnh tiểu đường thai kỳ đã được thảo luận (Zhang 2004a, 2004b), cũng như bổ sung vitamin C trong tam cá nguyệt thứ hai và thứ ba để ngăn ngừa vỡ ối sớm (Casanueva 2005, Tejero 2003) và gần đây nhất là sinh chọn lọc khuyết tật (chi, hở hàm ếch và dị tật tim) và tiếp xúc với các chất không thể điều trị được (Shinde, 2013). Mối liên quan này với việc sinh con bằng thuốc/hóa chất là một trong những khiếm khuyết đầu tiên đối với sự phơi nhiễm của con người và chắc chắn đòi hỏi nghiên cứu cao hơn. Một phân tích tổng hợp gần đây không tìm thấy việc bổ sung với Vitamin C và E có thể ngăn ngừa hoặc cải thiện tình trạng tiền sản giật của mẹ (Conde-Agudelo 2011).
Thời kỳ cho con bú
Acid ascorbic phân bố trong sữa mẹ. Sữa của người mẹ có chế độ ăn bình thường chứa 40 – 70 microgam vitamin C/ml, chưa thấy có vấn đề gì xảy ra đối với trẻ sơ sinh.
Nồng độ vitamin C trung bình trong sữa trưởng thành là 50 đến 90 mg/L ở những bà mẹ tiêu thụ đủ vitamin C trong chế độ ăn uống của họ. Nồng độ trong sữa không tăng rõ rệt khi bổ sung vitamin tổng hợp hàng ngày thường xuyên. Vitamin Nồng độ C trong sữa non cao hơn từ 10 đến 20 mg/L so với sữa trưởng thành. Mức độ tương đối ổn định cho đến sau 12 tháng sau sinh khi chúng bắt đầu giảm nhẹ và đạt 30% mức trước đó sau 18 đến 24 tháng sau sinh.
Lượng sữa tương quan với lượng máu và cả hai đều bị ảnh hưởng bởi chế độ ăn uống của người mẹ, đặc biệt ở những bà mẹ dinh dưỡng kém có lượng sữa phản ứng mạnh mẽ hơn với việc tăng lượng vitamin C trong chế độ ăn uống. Những bà mẹ hút thuốc có lượng vitamin C trong sữa thấp hơn so với những bà mẹ hút thuốc. ai thì không, điều này phù hợp với tác động tiêu cực đã biết của việc hút thuốc đối với nồng độ vitamin C trong máu con người.
Sữa của những bà mẹ dinh dưỡng kém và lượng vitamin C hấp thụ không đủ có hàm lượng vitamin C từ 30 đến 50 mg/L trong tuần đầu sau sinh và 20 đến 30 mg/L trong sữa trưởng thành. Việc bổ sung cho những bà mẹ bị thiếu hụt liều lượng từ 100 đến 200 mg mỗi ngày sẽ làm tăng nhẹ lượng sữa trưởng thành lên 40 đến 60 mg/L.
Trong số các bà mẹ sống ở vùng nông thôn Gambia, Tây Phi, nồng độ vitamin C trong máu và sữa tăng lên trong thời kỳ theo mùa khi chế độ ăn uống từ trái cây giàu vitamin C tăng lên. Mức sữa là 50 đến 60 mg/L trong suốt tháng 4 đến tháng 6 khi lượng xoài sẵn có và tiêu thụ cao nhất, và 40 đến 50 mg/L trong suốt tháng 12 đến tháng 2 khi lượng cam sẵn có và tiêu thụ cao nhất. Mức sữa là 20 đến 30 mg/L vào những thời điểm khác trong năm khi mức tiêu thụ các loại trái cây này ở mức thấp nhất. Các bà mẹ đang đồng thời dùng thực phẩm bổ sung cung cấp 35 mg vitamin C mỗi ngày trong suốt cả năm.
Sữa hiến tặng được tổng hợp và tiệt trùng từ các ngân hàng sữa ở Ontario và British Colombia, Canada có hàm lượng vitamin C trung bình chỉ 17,7 mg/L (khoảng 1,9 đến 43,2 mg/L) và 21,7 mg/L (khoảng 0 đến 68 mg/L), tương ứng.
Mười lăm bà mẹ cho con bú được nuôi dưỡng tốt trong khoảng thời gian từ 7 đến 20 tuần sau sinh được cung cấp 250, 500 hoặc 1.000 mg vitamin C mỗi ngày một lần trong hai ngày. Mức sữa trung bình nằm trong khoảng từ 100 đến 120 mg/L và không khác biệt đáng kể giữa các nhóm. Mức tối đa được báo cáo là 158 mg/L.[15] Sử dụng mức tối đa này, một trẻ sơ sinh bú sữa mẹ hoàn toàn sẽ tiêu thụ khoảng 25 mg/kg mỗi ngày, tương tự như liều điều trị cho trẻ sơ sinh mắc bệnh scorbut, và thấp hơn nhiều so với mức phơi nhiễm có hại cho trẻ sơ sinh.
Một báo cáo trường hợp ở Hoa Kỳ về một bà mẹ được nuôi dưỡng tốt dùng vitamin C 4.000 mg mỗi ngày trong suốt thai kỳ và cho con bú có lượng sữa là 105 mg/L vào ngày thứ 38 sau sinh.
Mười lăm bà mẹ sinh non trong khoảng thời gian từ 27 đến 35 tuần tuổi thai có nồng độ vitamin C trong sữa trưởng thành trung bình là 120 đến 130 mg/L so với 95 đến 120 mg/L ở các bà mẹ sinh đủ tháng 12. Cả bà mẹ đủ tháng và sinh non đều có đủ lượng vitamin C trong chế độ ăn uống và đang dùng thực phẩm bổ sung có chứa 60 đến 270 mg vitamin C mỗi ngày. Nghiên cứu này cho thấy rằng trẻ sinh non bú sữa mẹ không có nguy cơ thiếu vitamin C cao hơn trẻ đủ tháng. Các nhà nghiên cứu này đã đo cả axit ascorbic và axit dehydroascorbic trong các mẫu sữa, điều này có thể giải thích cho mức độ được báo cáo cao hơn so với các nghiên cứu khác.
Người mẹ dùng 500 mg vitamin C cộng với 100 IU vitamin E mỗi ngày trong 30 ngày làm tăng các dấu hiệu sinh hóa về hoạt động chống oxy hóa trong sữa ở phụ nữ đang cho con bú khỏe mạnh từ 1 đến 6 tháng sau sinh so với không bổ sung.
Sáu mươi phụ nữ đang cho con bú khỏe mạnh từ 1 đến 6 tháng sau sinh nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ được cung cấp vitamin C 500 mg cộng với vitamin E 100 IU một lần mỗi ngày trong 30 ngày hoặc không bổ sung. Trẻ sơ sinh của các bà mẹ được bổ sung đã tăng các dấu hiệu sinh hóa về hoạt động chống oxy hóa trong nước tiểu. Kết quả lâm sàng không được báo cáo.
Mười tám trẻ sinh non, bảy trong số đó có tuổi thai dưới 32 tuần, được cho ăn gộp, sữa hiến tặng tiệt trùng bắt đầu trong ba ngày đầu đời có nồng độ axit ascorbic trong huyết tương trung bình giảm từ 15,5 mg/L khi mới sinh đến 5,4 mg/L khi được 1 tuần tuổi và lên 4,1 mg/L khi được 3 tuần tuổi. Các tác giả mô tả mức độ 1 và 3 tuần là dưới mức điều trị (<6 mg/L) và cho thấy lượng ăn vào không đủ, có khả năng gây nguy hiểm cho tiềm năng tăng trưởng sau sinh. Mặc dù nghiên cứu này được thực hiện trước những tiến bộ trong việc cung cấp dinh dưỡng qua đường tĩnh mạch và tăng cường sữa qua đường ruột cho trẻ non tháng, các nghiên cứu hiện đại cho thấy rằng lượng vitamin C không đủ từ sữa hiến tặng thanh trùng gộp lại có thể là một vấn đề sức khỏe tiềm ẩn đối với trẻ non tháng nhận sữa hiến tặng.
Tác dụng phụ (ADR)
Tăng oxalat – niệu, buồn nôn, nôn, ợ nóng, co cứng cơ bụng, mệt mỏi, đỏ bừng, nhức đầu, mất ngủ, và tình trạng buồn ngủ đã xảy ra. Sau khi uống liều 1 g hàng ngày hoặc lớn hơn, có thể xảy ra ỉa chảy.
Thường gặp, ADR > 1/100
- Thận: Tăng oxalat niệu.
Ít gặp, 1/1000 < ADR < 1/100
- Máu: Thiếu máu tan máu.
- Tim mạch: Bừng đỏ, suy tim.
- Thần kinh trung ương: Xỉu, chóng mặt, nhức đầu, mệt mỏi.
- Dạ dày – ruột: Buồn nôn, nôn, ợ nóng, đau bụng, co thắt cơ bụng, đầy bụng, ỉa chảy.
- Thần kinh – cơ và xương: Đau cạnh sườn.
Hướng dẫn cách xử trí ADR
Không nên ngừng đột ngột sau khi sử dụng vitamin C liều cao trong thời gian dài để phòng ngừa bệnh scorbut hồi ứng do có sự cảm ứng quá trình chuyển hóa vitamin C; vì đó là một đáp ứng sinh lý và là hậu quả của dùng liều cao vitamin C trước đó.
Tương tác thuốc
Tương tác thuốc - thuốc
Dùng đồng thời theo tỷ lệ trên 200 mg vitamin C với 30 mg sắt nguyên tố làm tăng hấp thu sắt qua đường dạ dày – ruột; tuy vậy, đa số người bệnh đều có khả năng hấp thu sắt uống vào một cách đầy đủ mà không phải dùng đồng thời vitamin C.
Dùng đồng thời vitamin C với aspirin làm tăng bài tiết vitamin C và giảm bài tiết aspirin trong nước tiểu. Salicylat ức chế bạch cầu và tiểu cầu hấp thu acid ascorbic. Do đó, nồng độ acid ascorbic ở bạch cầu và ở huyết tương bị giảm, chỉ cao hơn chút ít so với nồng độ của người bị thiếu hụt acid ascorbic ở mô. Tuy vậy, cho đến nay chưa có chứng cứ nào cho thấy liệu pháp salicylat thúc đẩy tình trạng thiếu acid ascorbic. Tuy bổ sung vitamin C cho người đang dùng salicylat, nồng độ acid ascorbic trong huyết tương tăng, nhưng nồng độ acid ascorbic trong bạch cầu không tăng và dự trữ vitamin C ở các mô cơ thể không tăng. Do đó, bổ sung vitamin C cho người đang dùng salicylat là không bảo đảm. Tuy vậy, người bệnh dùng liều cao salicylat mà không có bất cứ triệu chứng nào của thiếu vitamin C thì cũng cần phải đánh giá tình trạng thiếu hụt.
Dùng đồng thời vitamin C và fluphenazin dẫn đến giảm nồng độ fluphenazin huyết tương.
Sự acid hóa nước tiểu sau khi dùng vitamin C có thể làm thay đổi sự bài tiết của các thuốc khác.
Vitamin C liều cao có thể phá hủy vitamin B12; cần khuyên người bệnh tránh uống vitamin C liều cao trong vòng một giờ trước hoặc sau khi uống vitamin B12.
Vitamin C có thể làm giảm hấp thụ selen (uống cách nhau ít nhất 4 giờ).
Vitamin C có thể làm tăng tác dụng của nhôm hydroxyd và làm giảm tác dụng của amphetamin.
Vì vitamin C là một chất khử mạnh, nên ảnh hưởng đến nhiều xét nghiệm dựa trên phản ứng oxy hóa – khử. Sự có mặt vitamin C trong nước tiểu làm tăng giả tạo lượng glucose nếu định lượng bằng thuốc thử đồng (II) sulfat và giảm giả tạo lượng glucose nếu định lượng bằng phương pháp glucose oxydase. Với các xét nghiệm khác, cần phải tham khảo tài liệu chuyên biệt về ảnh hưởng của vitamin C.
Có một vài báo cáo vitamin C làm giảm tác dụng chống đông máu của warfarin, nhưng không chắc chắn.
Tương tác thuốc - bệnh
Acid ascorbic ⇔ tan máu cấp tính (Nguy cơ tiềm ẩn vừa phải, mức độ hợp lý vừa phải. Điều kiện áp dụng: Thiếu G-6-PD): Tan máu cấp tính sau khi dùng liều cao axit ascorbic ở bệnh nhân thiếu hụt glucose-6-phosphate (G6PD) đã được báo cáo. Axit ascorbic nên được sử dụng thận trọng và điều chỉnh liều lượng ở bệnh nhân mắc G6PD.
Acid ascorbic ⇔ sỏi thận (Nguy cơ tiềm ẩn vừa phải, mức độ hợp lý vừa phải. Điều kiện áp dụng: Sỏi thận): Liều lớn axit ascorbic có thể dẫn đến tăng oxalat niệu ở 5% bệnh nhân. Axit ascorbic có thể axit hóa nước tiểu dẫn đến kết tủa sỏi urat, sỏi Cystin hoặc oxalate. Axit ascorbic nên được sử dụng thận trọng và điều chỉnh liều lượng ở những bệnh nhân dễ mắc sỏi thận. Nên theo dõi lâm sàng việc phân tích nước tiểu để xác định độ pH và sự hình thành tinh thể.
Tương tác thuốc - thực phẩm
Acid ascorbic ⇔ Natri (Nguy cơ tiềm tàng vừa phải, độ tin cậy thấp. Điều kiện áp dụng: Tăng natri máu, Tăng huyết áp): Các chế phẩm axit ascorbic có chứa natri. Hàm lượng natri nên được xem xét khi sử dụng ở những bệnh nhân có chế độ ăn hạn chế natri và các tình trạng cần hạn chế natri, chẳng hạn như suy tim sung huyết, tăng huyết áp và giữ nước.
Độ ổn định và bảo quản
Vitamin C sẫm màu dần khi tiếp xúc với ánh sáng; tuy vậy, sự hơi ngả màu không làm giảm hiệu lực điều trị của thuốc tiêm vitamin C.
Dung dịch vitamin C nhanh chóng bị oxy hóa trong không khí và trong môi trường kiềm; phải bảo quản thuốc tránh không khí và ánh sáng. Ở nồng độ lớn hơn 100 mg/ml, vitamin C có thể bị phân hủy kèm sinh carbon dioxyd. Vì áp suất có thể tăng lên sau khi bảo quản kéo dài, mở ống tiêm vitamin C phải cẩn thận.
Bảo quản ở nhiệt độ dưới 40oC, tốt nhất là từ 15 – 30oC. Tránh để đông lạnh.
Tương kỵ
Thuốc tiêm vitamin C tương kỵ về mặt vật lý với thuốc tiêm penicilin G kali.
Nguồn tài liệu tham khảo:
- Dược thư quốc gia Việt Nam 2018
- Drugs during Pregnancy and Lactation 2015 ( 2.18.7: Vitamin C)
- Vitamin C use while Breastfeeding | Drugs.com
- Vitamin C Interactions Checker - Drugs.com
Thông tin và sản phẩm gợi ý trong bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, vui lòng liên hệ với Bác sĩ, Dược sĩ hoặc chuyên viên y tế để được tư vấn cụ thể. Xem thêm